Bằng đồng xu, năm thu lu trong bụi
(cây rau má)
Cá chỉ dưới biển mà không xương
Cây chỉ trên nương mà không rẹn (rẻ)
( con sửa và cây nấm)
Cây chỉ trên rừng không có lá
( cây xương rồng)
Cây mây tắt, lá xếp đôi
Bông thì trời, trái thì trụt
( cây đậu phộng)
Cây xanh mà là cũng xanh
Dàm mưa dãi năng theo anh vô vàng
Một mai lửa đỏ thành than
Mây bay, khối lượn trước mặt chẳng chàng ơi.
( cây thuốc lá )
Cây xanh xanh trổ ra bông trắng
Dầm sương dãi nắng mới đẹp ý chăng
Nông ruột nóng gan, kẻ hà người hít
Cha cây, mẹ cây, đẻ bầy con trọc
( cây bười )
Cha mẹ trọc lại bọc bị tép
( trái bưởi)
Chị nậy nằm nôi, em bé em thôi nằm
( trái bí )
Chị nậy mặc áo đỏ, em nhỏ em mặc áo xanh
( trái ớt)
Chồng cháng chàng cao
Sinh con đẻ cháu đỏ mào lòm lom
( cây nưa)
Đầu xanh mà đội mũ xanh
Rủ nhau xuống tắm sông danh suối hà
Tắm rồi côi trật áo ra
Trên đầu mỗi đứa đội đã mũ xanh
(cây giá )
Hai người ở trên cao
Một người ở dưới hồ
Nay chữ hiệp lại một nhà
Kết đôi phu phụ cân đã nên cân
( trầu, cau,vôi)
Hè một, hè hai, hè một
( hột mẻ)
Mặc áo đỏ ngồi chó hỏ sau nương
( trái thơm )
Một mẹ ấp được trăm con
Khi mẹ về giúp nước, con còn theo cha
Đến khi tuổi tác đã già
Đem về trao rẻ để mà trao duyên
(mo cau)
Một mất mà mặc ba aó
(bán mít )
Ngoài da cóc, trong bọc vàng
Mở ra hai hàng con cháu xúm quanh
( trái mít chín )
Tháng giêng cuốc đất trồng cây
Tháng hai mần rạp cho thầy đúc chuông
Thảng ba hoa nở bốn phương
Ông kêu rối rít thôi thương đều hay
( đây hầu, đậy bị )
Thợ rèn, thợ bạc ngồi không
Khoanh tay mà ngó, mà trông hắn hoài
(cây mẹ đất)
Trai mặc áo, lão ở trần
Việc màn kêu lão trước
(cây tre )
Trên dâu rậm rịt rậm rì
Dưới khu trậm trệ, dười đi có lông
( cũ tối )
Trẻ không dám xỏ ai
Tra bạ ai xỏ nấy
(có may)
(Nguồn: "Văn học dân gian Quảng Trị"- Tập 1 - Sở văn hóa; Thông tin thể thao; Thư viện Quảng trị 1922)