Bằng trái mướp, ăn cướp cả làng
( con chuột )
Càng ngắn càng dài
( con cua)
Cả đời không ăn cắp của ai
Nhánh sung cũng độ, nhánh mai cũng kề
Ngâm trong chua xót nhiều hè
Không ăn mà chịu một bề tiếng tăm
(con cú)
Con ở nhà mẹ đi chọc tiết
Nếu nó biết thì mẹ không về
Nếu nó ngủ mê, mẹ về được
( con muỗi)
Họ hàng chỉ sống trên non
Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày
Không may lừa dậy khói bay
Thảm thương ấu tử sống rày thác mai
( tổ ong bị người ta đốt )
Chân vịt, thịt gà, da trâu, dầu rắn
(con rùa)
Đầu làng treo mô
Cuối làng cầm cờ
Mô đánh chừng mô
Cờ phất chừng nấy
( con chó đang sủa)
Đầu rồng, đuôi phụng, cánh tiên
Ngày năm bảy mụ, tối ngủ riêng một mình
( con gà trống)
Đố anh anh nói cho mau
Người nói chín, kệ nói sáu, cãi nhau om sòm
(con ba ba)
Eo lưng thất đáy, tiếng lại kêu vù
Đã có bốn cánh, lại thêm sau khu cái nọc
(con ong)
Khen ai nho nhỏ
Mất tỏ như gương
Tối trời như mực
Biết người thương ra chào
( con chó )
Mạ đi trước dành rồng đánh rạc
Con chạy sau, vừa chạy vừa hát
( đàn gà con )
Mẫu sinh tử, tử lại thực mẫu
Mẫu tồn tử tại, mẫu bại tử vong
(con mọt ăn gỗ )
Mình tròn nhỏ mọn khác loài
Vai mừng hạt ngọc ở ngoài càn khôn
( con đom đóm)
Nước trong ô đồng hồ xao xuyến
Chẵn hai chục ngày nước biến thịt xương
( trừng gà ấp)
Nhà vàng đóng khố cũng vàng
Khách đi ngoài đàng không dám mò vô
(tổ ong nghệ )
Nhìn nhau hai mặt sượng sùng
Cách nhau không mấy mà không đàng tơi lui
Nhìn nhau hai mặt bùi ngùi
Trách lòng cậy thợ không cho tới lui cũng buồn
( hai con rồng xây đối diện trước cửa đình )
Trên thời đội mũ quan âm
Khăn ba ni choàng cổ
Chân thì ở lố
Ngón lại sơn soa
( chim chào mào)
Vuông nó vuông, cũng nỏ tròn
Đem riu mình đỏ như son
Người chê dò, khen ngon cũng nhiều
(con cua)
(Nguồn: "Văn học dân gian Quảng Trị"- Tập 1 - Sở văn hóa; Thông tin thể thao; Thư viện Quảng trị 1922)