16. Sự tích về hai dùng họ ở vùng núi Tây Vĩnh Linh và Núi Bạc (Vân Kiều)
Ngày xưa, Mô (họ, bộ tộc) Oông và Mô anh chuyên nghề săn bắn ở Xiêng Hùm, Pha băng. Mô Ang chuyên nghề chài lưới ở các khe lớn thuộc vùng Xê băng hiên.
Do hoàn cảnh thường gặp nhau. Được một thời gian, Xuất của hai mô thuận tình kết nghĩa cả lơ với nhau, cùng thờ một vua.
Một hôm, những người thuộc bộ tốc Anh cho chuyền chèo dọc khe Ra Lu, Ngược lên Ra Vởn và dừng lại ở một vực sâu. Có một con cá cắn câu và chui vào hốc đá. Người đi cậu ra sức kéo nhưng vẫn không có kết quả. Vừa tiếc lưỡi câu, vừa thêm con cá to, họ kè nhau lặn xuống vực. Khi trở lên mặt ai nấy đều thất sắc. Ai cũng kể rằng đã có một thứ đá lạ, sáng trắng và nặng lắm. Có một người cố gắng lắm mới mang được một viên lên.
Đêm đó, những người họ Mô Ang nghỉ lại trên bờ vực và cho người đi tìm anh em cà – lơ bên Mô Oông đến xem sự lạ.
Sau khi đã làm lễ cúng ma nước, người của hai mô lặn xuống lấy lên không biết bao nhiêu là đá bạc. từ đó họ đặt tên nơi này là Ta mau Pa rả (tức là vùng núi đá bạc). Họ phân nhau mang chỗ đá quí đó về vùng Khăm – blâu (tức Cam Lộ) và vùng Mường Lùm (tức vùng Lào) đổi lấy các vật dụng quý như lưỡi rìu, lưỡi cuốc, dao, rựa,… Người Xuất của hai mô bàn bạc thỏa thuận sẽ đưa người của hai mô về lập làng, làm rẫy và tập làm ruộng. Để dẫn nước vào ruộng, người ta chắn sông Ra Lu lại, ở đoạn từ Ta- rúa và đào xuyên hòn núi ở bàn Na (dấu vết ngày nay vẫn còn)
Nhờ biết chuyển săn bắn, chài lười thành nghề phụ, lấy chăn nuôi trong trọt làm nghề chính nên chẳng bao lâu vác – ta rúa trở nên giàu có. Cũng từ đó Xuất của hai họ muốn xưng vua. Nhung ngặt một nỗi, ước muốn của hai Xuất không được vua dưới đồng bằng chấp thuận. Vua chỉ cho Xuất làm chúa vùng nhưng hàng năm phải dâng vua bốn cô gái đẹp, ba gùi sáp, năm gùi một ong. Lúc lên ngôi chúa phải nộp đủ một thuyền chân kỳ đà và một gùi đầy não rùa. Biết không thể xưng vua được, hai người Xuất đành về gặp bà con nói hết mọi điều. Sau đó họ chia hết của cả, bạc vàng cho từng nhà và phân nhau ra các ngã dọc sông Xê băng hiên sinh cơ lập nghiện. Từ bấy đến nay không biết đã bao đời, chỉ biết ngày nay con cháu hai họ đó còn sống khá đông đúc trên các bản làng vùng Xê – băng – hiên.
(Nguồn: "Văn học dân gian Quảng Trị"- Tập 1 - Sở văn hóa; Thông tin thể thao; Thư viện Quảng trị 1922)