Vào đời Trần, người Chăm thường ra quấy phá ở đất Thanh Nghệ. Triều đình một mặt cử quân đi chinh phạt, mặt khác vẫn cử người đi thương thuyết với người Chăm để tránh cảnh xung đột Việt Chăm. Có người họ Bui được cử vào đội quân lao sứ, chuyên đi điều tình, khuyên giải. Dần dà ông quen biết rộng rãi với người Chăm.
Bấy giờ Châu Hóa ( nay là đất Quảng Trị) đã lác đác có người Việt vào định cư sau cuộc hôn nhân của Chê Mân với Huyền Trân công chúa. Đất đai ở đây trông cũng màu mỡ, trù phú. Nhân có chiếu triều đình chiêu tập dân binh vào đất Thuận Hóa vì người Chăm đã bỏ đi khá nhiều sang bên kia đèo Hải Vân, thế là họ Bùi đứng ra xin lĩnh một nhóm người đến khai khẩn vùng này. Đấy chính là thế hệ đầu tiên của mười hai dòng họ đến khia khẩn ở Câu Nhi. Thoạt đầu họ còn bỡ ngỡ, nhờ họ Bùi hiểu biết ít nhiều phong thổ, tập quán của người Chăm nên chẳng mấy chốc người mà người Việt sống thân ái; hòa hợp với họ. Nhà cửa được xây dựng, vườn tược được mở, làng xóm hình thành. Ngày lễ, ngày tết, dân làng mới này vẫn qua lịa thăm viếng người Chăm. Cảm mến lòng nhân ái của họ Bùi, người Chăm thường hay tặng lại quà để tỏ tình giao hảo. Họ Bùi lại mang những món quà đó dâng lên vua. Vưa ban khen ông, phong chức “ cầm đề quan”, về sự nghiệp giữ được mối hòa hợp giữa hai dân tộc của ông. Vua còn khuyến dụ việc mở rộng thêm bờ cõi, an dân để làm cho đất nước cường thịnh. Từ đó làng ngày càng trù phú, định chùa, chợ búa, nhà cửa ngày càng đông đúc, hữu tình. Làng ban đầu có tên là Câu Lãm, về sâu đổi là Câu Nhi.
(Nguồn: "Văn học dân gian Quảng Trị"- Tập 1 - Sở văn hóa; Thông tin thể thao; Thư viện Quảng trị 1922)