Ngày xưa, ở làng nọ có phú ông sinh được một người con trai duy nhất, nhưng nợ đời "cha làm thầy, con đốt sách", tính tình cậu con siêng ăn chơi, biếng làm lụng, lại hay cờ bạc rượu chè. Biết tỉnh con trai, phú ông muốn tìm cho con một người vợ khéo léo, sau này biết đường bày vẽ cho chồng, trọn bề tề gia nội trợ. Ông bèn mang theo một lon gạo và một vác mía đi khắp huyện để thử tìm dâu giỏi. Trong số rất nhiều cô gái không đáp ứng cuả phú ông dùng vác mía tươi kia nấu chín gạo thành cơm, thì có một cô gái khôn khéo đã ăn hết mía, dùng bà phơi nắng rồi làm củi đun chín cơm, xong lễ phép mời ông ăn. Cô gái được phú ông chọn về làm dâu và được ông tin yêu rất mực.
Vợ chồng trẻ chuẩn bị sinh con thì phú ông qua đời. Chẳng bao lâu, anh chồng vốn tỉnh lang bạt, đem bán hết gia sản, bỏ cả vợ con. ra đi biệt tín. May sao, trước lúc nhắm mắt, phú ông đã giao lại cho cô dâu một hũ vàng và dặn con dâu dành để sinh sống, nuôi con và lo cho chồng. Sau khi người chồng bỏ nhà ra đi, người vợ theo lời dặn của bố chồng, đã bán một ít vàng xây dựng nhà cửa, nuôi con khôn lớn, chu tất việc thờ phụng, cúng giỗ tổ tiên họ hàng nhà chồng. Lâu sau, người vợ cầu trời khẩn phật, nghĩ cách tìm người chồng trở về đoàn tụ gia đình. Người vợ đã tổ chức tế lễ linh đình, mời bà con họ hàng ăn uống, ban phát cho những kẻ đói khát, đâu đường xô chọ Một lần phát hiện ra trong dám ăn mày đến xin bản phát có người ra chồng của mình, chị vợ khôn ngoan vẫn bình tĩnh giả vờ không hay biết. Còn anh chồng sau thời gian lưu lạc đã trở thanh kẻ ăn mày, lúc trò về đã không nhận ra được cảnh gia đình, vợ con do khác. Từ đó, bở ngày ngày trong hàng người đứng chờ gia chủ phạt cơm cầu phúc, anh chồng ân mày đều bị hụt phân do người vợ cơ tỉnh không phát. Chị vợ, hễ thấy anh chồng dùng dầu hàng thì bắt đầu phát từ cuối tì lên, hể thấy anh chồng đứng sau thi lại phát từ trên xuống. Một lần, k tức quá, anh chồng ăn mày mới thắc mắc và không chịu di nếu không có phần. Người đàn bà gia chủ bèn mời anh ta ở lại dùng cơm bữa tối sau phân tê lẻ.
Trong lúc tê lẻ, anh ăn mày vô cùng kinh ngạc khi nghe được lời khẩn vái có tên ông bà, cha mẹ, tên người chồng lưu lạc của gia chủ. Anh chồng liên chạy bỏ đến ôm lấy người vợ của mình, khóc lóc thảm thiết, kể lại sự tình, nhận lấy mọi lỗi lầm của mình và tỏ ý mong người vợ rộng lòng tha thứ. Kể từ đó anh chồng được sống trong gia đình đầy đủ, êm ấm. Hàng ngày, nghe người vợ chỉ vẽ, người chồng đâm ra chịu khó làm ăn, họ sống yên vui cùng con cái.
Riêng người vợ được mọi người chung quanh cho là người phụ nữ khôn khéo, và họ cũng thường nhắc tới ông cụ ngày trước đã từng vác mía tim dâu.
(Nguồn: "Văn học dân gian Quảng Trị"- Tập 1 - Sở văn hóa; Thông tin thể thao; Thư viện Quảng trị 1922)