Xưa kia, ven làng nhỏ cạnh sông Ô Lâu có hai vợ chồng nghèo, muộn màn lắm họ mới sinh được một mụn con trai. Cậu bé lên tám thì bố qua đời. Đến lúc ấy, bà mẹ tuổi cũng đã cao, mắt mờ chân yếu. Từ ngày bố mất, cậu bé càng được nuông chiều, lại còn lêu lổng ham chơi. Đến mười hai tuổi, cậu vẫn chưa biết sách và là gì cả. Thấy sức đã yếu, sợ con về sau không có nghề ngồng, chủ nghĩa gì cả, bà mẹ goi con đến mà bảo :
- Con đã lớn khôn, mẹ mong cho con học hành có cái chữ cho ra người, có vậy mẹ mới nhắm mắt yên lòng.
Còn trẻ người non dạ, chưa biết gì về nghĩa lý cuộc đời, cậu bé bỏ ngoài tai những lời khuyên của mẹ. Cậu ta viện có rằng. để mẹ c nhà một minh thì không có ai săn sóc, nên cứ nhũng nhãng mãi.
Hồi ấy đi học xa lắm, mấy làng mới có một trường so ấu. Muốn tim thầy giỏi, có khi phải đi hàng ngày đường. Bà mẹ khuyên mãi không được mội dọa :
- Nếu con không đi thì mẹ sẻ chết ngay.
Thế là cậu bé đánh gạt nước mắt ra đi.
Được ít lâu, một hôm nhỏ mẹ quá, cậu bé trốn thầy về thăm.
Gặp mẹ mừng tủi, chưa nói được câu nào thì bà đã hỏi :
-Con học đều đâu, viết thành chữ cho mẹ xem !
-Lúc ấy trời đã tối. hà mẹ bèn tắt đèn, tiếp tục sàng gạo mà không nói thêm câu nào. Cậu bé loay hoay mãi, phần vì trời tối, phần vì quên hết chữ nghĩa nên chẳng viết được lẩy một câu. Lát sau, đèn được thắp lên. Trong bụng muốn thừ xem con học được cái gì, nhìn sang vẫn thấy giấy để trống, bà mẹ lại thủ thi :
-Trời tối, mắt mẹ kém, còn sàng dược gạo, huống chi-con còn nhỏ, mắt sáng mà không viết được một chữ. Ráng lên, khi viết được chữ, hãy vê thăm mẹ.
Hôm sau, vai khoác tay nài dựng mấy lon gạo mà người mẹ phải nhịn ăn dành lại, cậu từ giã mẹ lên đường.
Thấm thoắt đã mấy mùa trặng. Bà mẹ ở nhà lâm bệnh nặng nằm liệt giường. Có lúc đã muốn nhắm mắt nhưng nghĩ đến con chưa học nên chữ mà bà cứ ráng trông đợi. Ngày ngày, bà lân ra vườn hái rau, nấu bát canh loãng cầm hơi, lòng phấp phỏng chờ con. Thế rồi một ngày nọ, cậu bé trở về, đôi mất trông linh lợi hẳn.
Vừa vào nhà, cậu ra chia những tò giấy được phóng những nét bay bướm để khoe với mẹ. Mắt hà mẹ đã mìt, tạp run run, bà sở những nét chữ dậy măn nguyện. Ngay đém đó bà cu qua đới. Làng xôm thương tinh lo mai táng chu tất cho bà mẹ. Cậu hé lai gạt nước mắt, bẩm chí đi tìm thầy học tiếp.
Về sau, khi thành dạt làm quan. không nạm nào sị quan ấy không về viếng mỗ mẹ. Mối lân về lại không quên đáp nghĩa làng xóm. Dân trong vùng vẫn truyền tung cho tôi bây giờ câu chuyện tình nghĩa mẹ con của bà cụ năm xưa.
(Nguồn: "Văn học dân gian Quảng Trị"- Tập 1 - Sở văn hóa; Thông tin thể thao; Thư viện Quảng trị 1922)