Tích Tường Như Lệ bao xa
Cách một cái hói, phân ra hai làng
( ca dao QuảngTrị)
Ngày trước, hài làng này là một, con cháu trong làng đều có gốc gác vùng ngoài vào cả. Tương truyền người có công đầu khẩn vùng này là con cháu dòng dỏi nhà se. Thời ấy, trong triều xảu ra vụ tranh chấp, ông cùng một số người rủ nhau di cư vào bên kia dãy Hoàng Sơn để lập nghiệp. Sẽ người lúc đầu chỉ khoảng vài chục người. Họ bồng bê nhau vượt truông thắm, đèo cao mà vào. Bấy giờ vùng Châu Hóa đã thuộc đất Chúa Nguyễn. Xóm làng trù phú đã mọc hai bên đường. Gian lao bệnh tật đã cướp đi một số người nên có một số tìm cách nươi nâu ở nơi đường tắt rẻ ngang. Bấy giờ họ Lê thấy vậy mới nói rắng: “ Đã đi thì đi cho tới, đã bới thì bới cho nên. Làm vậy hoá ra lại làm vào cảnh ngụ cư sao? Chi bằng ta rán thêm ít nữa, tìm chốn nào hoang tịch mà gây cơ lập nghiệp từ đầu cho con cháu nhờ”. Bàn bạc mãi rồi cũng thuận tinh đi tiếp. Chỉ còn tám ngưới, dắt diu nhau vào tận sông Thạch Hãn. Đến đây thấy cảnh vật trù phú hữu tình, đoàn người dừng lại. Nhìn thế đất khá cao, gần sông hói có thể cải tạo được, thế là họ kiên trì, vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt. Chẳng bao lâu nhà cửa được dựng lên, ruộng hoang được vỡ, làng được thành lập từ đó.
Cũng vào thời ấy, những người Việt mới vào định cư ở vùng này thường bị giặc Nam kéo ra quấy phá. CHẳng ai khác hơn chính họ phải ra tay dẹp loạn. Truyền thuyết kể rằng: Ngày ấy được tin lũ đạo tặc kéo đến cướp phá, họ Lê cùng con cháu lên ngựa đuổi đánh. Trong một trận kịch chiến ngài bị thương nặng. Quay trở về máu đẫm yên ngựa. Khi được đỡ xuống thì ngài tắt thở trên tay con cháu mà không trăn trối được điều gì. Mọi người ai cũng thương tiếc, cảm công đức ngài, mai táng ngài rất trọng thể. Ngày nay cạnh cầu Đúc trong làng còn miếu thờ ngại. Đấy là miếu lớn nhất làng, ghi nhớ công ơn người có công khai canh, lập nghiệp cho con cháu muôn đời.
(Nguồn: "Văn học dân gian Quảng Trị"- Tập 1 - Sở văn hóa; Thông tin thể thao; Thư viện Quảng trị 1922)